Cuối tháng năm 2011 vừa rồi, căng thẳng lại gia tăng lên một mức độ cao hơn trên biển Đông khi ba tàu hải giám của Trung Quốc đe dọa tàu thăm dò địa chấn của Việt Nam Bình Minh 2 và phá hoại thiết bị đo địa chấn của Bình Minh 2. Sự kiện này xảy ra cách bờ biển Việt Nam 120 hải lý và cách đảo Hải Nam của Trung Quốc 340 hải lý, hoàn toàn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) 200 hải lý của Việt Nam.
Sự bành trướng của đường chữ U
Đối với những ai còn thắc mắc phải chăng sự việc này có dính dáng đến tranh chấp Hoàng Sa hay Trường Sa, chúng tôi xin được trả lời rằng không hề dính dáng. Sự kiện tàu Bình Minh diễn ra gần bờ biển Việt Nam hơn quần đảo Hoàng Sa hay Trường Sa. Theo luật quốc tế và thông lệ quốc gia, Quần đảo Hoàng sa và Quần đảo Trường sa và các bãi đá chỉ được hưởng hoặc chế độ nội thủy 12 hải lý hoặc cùng lắm là một vùng biển nội thủy cộng với một đoạn đặc quyền kinh tế (EEZ) không vượt ra quá nhiều mức 12 hải lý. Do vậy dù giàu trí tưởng tượng đến đâu đi nữa thì những vùng đặc quyền kinh tế của hai quần đảo này cũng không thể vươn tới hay đi qua các đường trung tuyến giữa chúng và các bờ biển đang bao bọc Biển Đông.
Vào ngày 27/5/2011, Việt nam gởi một công hàm ngoại giao đến cho Đại sứ Trung Quốc ở Hà Nội tố cáo Trung Quốc vi phạm Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS) và quyền chủ quyền Việt Nam ngay trong khu vực đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước này. Ngày hôm sau, Trung Quốc phản ứng rằng những gì họ làm là "thực thi luật biển và các hoạt động giám sát hoàn toàn bình thường trong vùng biển mà Trung Quốc có quyền tài phán"
Thế nhưng bởi vì "vùng biển có quyền tài phán" không phải là một trong các vùng nước được định nghĩa trong  Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS), những gì Trung Quốc nói về vùng biển ấy và những cơ sở pháp lý cho vùng biển ấy vẫn còn mù mờ.
Việc tranh cãi qua lại tiếp tục đến ngày 29/05/2011, Việt Nam trả đũa bằng cách tuyên bố rằng Việt Nam đã thực hiện việc thăm dò hoàn toàn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa, 'theo tinh thần của Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS). Đây không phải là một khu vực tranh chấp và cũng không nằm trong "vùng quản lý của Trung Quốc". Trung Quốc đã cố ý đánh lạc hướng để dư luận nghĩ rằng đây là vùng tranh chấp'.
Rất hiệu quả ở chỗ Việt Nam đã chỉ ra rằng vùng biển của sự kiện này không nằm trong vùng tranh chấp thuộc Quần đảo Hoàng Sa hay Quần đảo Trường Sa.
Hai ngày sau, Trung Quốc phản công rằng hành động của Trung Quốc, tức "hành động thực thi luật pháp bằng các tàu hải giám Trung Quốc chống lại việc các tàu Việt Nam vận hành bất hợp pháp là hoàn toàn chính đáng." Họ còn thúc giục Việt Nam phải"ngay lập tức ngưng những hành động xâm nhập và không được gây thêm rắc rối mới."


Tàu hải giám Trung Quốc. Ảnh: Petro Times
Thêm một lần nữa, Trung Quốc không đưa ra được trong tuyên bố của mình định nghĩa nào của vùng biển theo luật quốc tế UNCLOS.Và nước này cũng không đưa ra được giới hạn nào hoặc trích dẫn luật quốc tế nào để biện minh cho lập luận của mình.
Diễn biến gần nhất này mang một sự tương đồng đáng lưu ý trong sự kiện Bãi Cỏ Rong vào tháng ba/2011, khi đó hai tàu tuần tiễu của Trung Quốc đe dọa một tàu thăm dò địa chấn của Philippines đang hoạt động tại đây. Sự việc này diễn ra tại khu vực gần bờ biển Palawan của Philippines hơn là khu quần đảo Trường Sa trong vòng tranh chấp. Trong cả hai trường hợp, Trung Quốc khẳng định tuyên bố chủ quyền mà không đưa ra giới hạn hay lý lẽ dựa trên UNCLOS hay luật quốc tế. Trả lời của Philippines là khu Bãi Cỏ Rong không thuộc Quần đảo Trường Sa và do vậy không được coi đó là ở trong vùng tranh chấp Quần đảo Trường Sa.
Trước đây, Trung Quốc đã đưa ra những yêu cầu tương tự đối với Malaysia tại Bãi James,  đối với Indonesia tại vùng biển gần đảo Natuna, và đối với Việt Nam tại Bãi Tư Chính và Thanh Long. Những đòi hỏi này cùng với các sự kiện Bãi Cỏ Rong và
Bình Minh là những minh chứng cụ thể rằng Trung Quốc đang bành trướng sự kiểm soát của họ ra rất xa khu vực đang tranh chấp là Hoàng Sa, Trường Sa và Bãi Cạn Scarborough và các vùng nước liên quan.
Một đặc tính chung ở các tuyên bố và tranh cãi này là chúng liên quan đến các vùng nước bên trong vùng "chữ U" mập mờ mà Trung Quốc đã đưa vào bản đồ của họ trong thế kỷ 20 vừa qua. Theo năm tháng, đường chữ U dần dần bành trướng đến khi bao trùm toàn vùng biển Đông, vào đến tận bên trong bờ biển của các nước khác chỉ chừa lại chưa đầy 100 hải lý cho các nước này, mà không hề có một lập luận nào dựa trên luật pháp hay thông lệ quốc tế.
Dù Việt Nam, Philippines, Malaysia, Indonesia và Brunei là tất cả những bên bị ảnh hưởng trực tiếp đến chính sách bành trướng này, hai nước Việt Nam và Philippines, những nước gần Trung Quốc nhất, sẽ phải đứng mũi chịu sào sức bành trướng Trung Quốc vì một số lý do.
Thứ nhất, không gian biển hai nước này rõ ràng sẽ bị ảnh hưởng nhiều nhất. Thứ nhì, nếu Trung Quốc không cố lấy cố để tranh giành các vùng biển của Việt Nam và Phillippines, thì sau này việc giành giật các vùng biển của Malaysia, Indonesia và Brunei sẽ là những hành động manh mún. Nghĩa là trong khi Trung Quốc có thể thỏa hiệp với các nước ở cực nam của đường chữ U kỳ dị để cầm chân cho Malaysia, Indonesia và Brunei im lặng khi họ xử lý Việt Nam và Philippines, họ không thể làm từ dưới lên và bỏ qua không tuyên bố chạm đến Việt Nam và Phillipines để mà giành khu vực cực nam của đường chữ U. Dĩ nhiên nếu Trung Quốc thành công trong cung cách đã ứng xử với Việt Nam và Philippines, thì sẽ dần dần đến lượt  Malaysia, Indonesia và Brunei.
Do vậy, cả Việt Nam và Phillippines đã đứng trong tình thế cần phải kiên định bảo vệ không gian hàng hải hợp pháp của mình. Không chỉ vấn đề kinh tế bị ảnh hưởng: hai nước này còn có lý do để lo ngại an ninh và độc lập dân tộc bị đe dọa.
Tuy vẫn còn những khác biệt giữa Việt Nam và Philippines trong vấn đề Quần đảo Trường Sa, vẫn còn có nhiều lãnh vực mà hai nước có thể hợp tác để bảo vệ các vùng biển của mình không dính gì đến Quần đảo Trường Sa.
Trở lại với các tuyên bố chủ quyền quá đà của Trung Quốc, các vùng biển này có lẽ sẽ có ý nghĩa quan trọng hơn các vùng nước đang trong khu vực tranh chấp của Quần đảo Trường sa.
Công hàm của Philippines đến Ủy ban về Ranh giới thềm lục địa sau sự kiện Bãi Cỏ Rong đã nhấn mạnh cách thức nước này vận dụng UNCLOS để bảo vệ quyền lợi của họ tại Biển Đông. Khi Việt Nam cũng dựa trên bộ luật này, hai nước đã có một khung pháp luật chung để hợp tác.
Ví dụ, nếu Việt Nam và Philippines có thể lên tiếng ủng hộ nhau về mặt ngoại giao ở các sự kiện Bãi Cỏ Rong và Bình Minh, thì cả hai nước đều cùng có lợi. Quan trọng hơn, các chuyên gia và nhà ngoại giao của hai nước có thể tập hợp lại cùng các đồng nhiệm ở Malaysia, Indonesia và Brunei để quyết định rằng Quần đảo Trường sa bao gồm những gì và những vùng biển nào là thuộc về nước nào, việc này sẽ có thể dẫn đến một thỏa thuận chung bên ngoài những vùng tranh chấp trong biển Đông.
Cách thức như trên sẽ giúp các nước này trong cuộc đấu tranh đơn lẻ và hợp quần chống lại cố gắng của Trung Quốc, nước đang mở rộng tranh chấp ra những vùng trước đây chưa tranh chấp.  Cách này sẽ giúp thuyết phục thế giới về chính nghĩa mà họ theo đuổi. Thêm nữa, điều mà Việt Nam và Philippines có thể khai thác là  cùng nộp báo cáo chung về thềm lục địa cho  Ủy ban về Ranh giới Thềm lục địa, có thể có thêm sự tham gia của Malaysia và Brunei.
Cả hai cách thức trên sẽ không ảnh hưởng gì đến vấn đề tuyên bố chủ quyền tại Quần đảo Trường sa và sẽ có lợi lớn cho Việt Nam và Philippines trong việc kháng cự lại các tuyên bố mang tính bành trướng của Trung Quốc tại Biển Đông.

  • * Bài viết này của nhà nghiên cứu Dương Danh Huy được đăng trên The Diplomat. Ông là tác giả của nhiều bài viết về Biển Đông trên báo Vietnamnet. Tựa bài và các tựa nhỏ do Tuần Việt Nam đặt lại.

Theo Tuần Việt Nam

Theo đuôi :

ADVERTISEMENT